Mù Cang Chải là một huyện vùng cao nằm ở phía Tây của
tỉnh Yên Bái, giáp với Thị xã Nghĩa Lộ, Mường La và Than Uyên của Lai Châu. Từ
Hà Nội để đến với Mù Cang Chải bạn có thể lựa chọn đi theo hướng Quốc lộ 32 để
cùng với đó khám phá đèo Khau Phạ, một trong tứ đại đỉnh đèo của Tây Bắc. Mù
Cang Chải nổi tiếng nhất với khách du lịch bởi “đặc sản” ruộng bậc thang. Với
hơn 700ha ruộng trong đó 50% tập trung ở 3 xã là La Pán Tẩn, Chế Cu Nha và Dế
Xu Phình trải dài suốt đoạn đường từ đèo Khau Phạ về đến trung tâm thị trấn bạn
sẽ không thể cưỡng lại được sự quyến rũ mê người từ màu vàng óng của những dãy
núi trồng toàn lúa. Năm 2007 ruộng bậc thang Mù Cang Chải đã được xếp hạng là
di tích danh thắng cấp quốc gia.
1.Thác Pú Nhu
Thác Pú Nhu nằm ở bản Pú Nhu, thuộc xã La Pán Tẩn,
huyện Mù Cang Chải cách trung tâm huyện Mù Cang Chải chừng 10km về phía Tây. Được
bắt nguồn từ các con suối trên các cánh rừng đầu nguồn từ Than Uyên (Lào Cai) đổ
về, thác có độ cao cột nước khoảng 20m được chia thành nhiều bậc.
2.Thác Mơ (Mù Cang Chải)
Thác Mơ nằm giữa hai ngọn đồi Nả Háng A và Nả Háng B
thuộc địa phận xã Mồ Dề (Mù Căng Chải, Yên Bái).Trong hành trình chinh phục
thác Mơ có 7 điểm ấn tượng để bạn dừng chân, thưởng ngoạn. Từ quốc lộ 32, đi bộ
khoảng 30′ vào đến chân thác, tiếp tục từ đây bạn sẽ tới điểm thác một tầng nơi
dòng nước chảy theo hình xoắn ốc. Để đến được điểm thác 4 tầng tiếp theo bạn cần
tiếp tục đi bộ ngược dòng thác, đây cũng là nơi ấn tượng nhất để bạn có thể lưu
lại những hình ảnh tuyệt đẹp về Thác Mơ.
3. Bản Lìm Mông
Đường vào Lìm Mông phải vượt qua bản người Thái nằm
gần suối Nậm Có, theo đúng tập tục định cư và sinh sống của người Thái, ở gần
nguồn nước. Những ngôi nhà sàn bản Lìm Thái nằm rải rác bên đường, nhất là đoạn
đã bêtông hóa.
Nhưng ở bên kia con suối đi lên bản Lìm Mông vẫn là
con đường đất đỏ, sống trâu, sống ngựa nhập nhằng. Con đường đất đỏ, bụi mờ
trong nắng khô. Những góc cua vừa gắt vừa dốc đến mức sẽ khiến chiếc xe máy của
du khách như muốn trôi tuột lại phía chân dốc. Vào ngày mưa hẳn sẽ là một thách
thức đáng sợ cho các tay lái, dù xe có đi số 1 nhưng vẫn chỉ dền dứ mà xoay tít
quay vòng vì trơn trượt. Còn 4km nữa mới đến bản Lìm Mông cao cao, du khách muốn
lên bản thì cũng phải đành để lại những chiếc xe máy lấm lem bùn đất nơi đầu dốc
mà đi bộ ngược lên.
Đến mùa lúa, người ta sẽ ngẩn ngơ trước một vẻ đẹp
không hai của những cánh đồng bậc thang, những thành quả lao động tuyệt vời của
bà con dân tộc Mông suốt một năm trời. Hương lúa mới dịu ngọt như xua tan cái nắng
hanh khô gay gắt. Những cánh lúa dài, trĩu hạt, xanh mướt. Lúa cấy một mùa đang
mang trên mình tấm áo của trù phú và ấm no.
Vào buổi chiều, Lìm Mông trở nên thơ mộng và đẹp lạ
thường, đặc biệt là vào mùa gặt. Những đám mây nối đuôi nhau ngả màu hồng nhạt
nơi cuối chân trời. Đàn chim bay mải miết trên những cánh đồng óng ả, mênh mông
của mùa gặt hái. Lũ chim sẻ rinh rích trên mái nhà, nơi lúc lỉu những trái bí đỏ
đã chín ửng. Gió xào xạc những sóng lúa vàng, lúa xanh dập dờn thoảng hương. Lũ
trẻ í ới gọi nhau đưa trâu về nhà. Con đường nghiêng bóng vai gầy của những cô
gái người Mông địu con về bản.
4. Suối Giàng
Xã Suối Giàng huyện Văn Chấn tỉnh Yên Bái trên độ
cao 1.371m so với mực nước biển, nằm sâu trên dãy núi Phan Xi Phăng hùng vĩ.
Đây là quê hương của loại chè Shan cổ thụ với hơn 300 hộ đồng bào dân tộc Mông
sinh sống. Khí hậu ở Suối Giàng bốn mùa se lạnh, tựa như Sapa, Đà Lạt. Chỉ mất
chút ít thời gian thả hồn cùng những dải lúa cong cong theo vạt núi, từng nương
ngô, nương cải xanh non trong sương bay bảng lảng là thấy mình như đứng trên
mây.
Từ trên cao nhìn xuống là biển lúa rộng mênh mông
vàng óng Mường Lò – vựa lúa lớn thứ hai của khu vực Tây Bắc và thị xã Nghĩa Lộ
thanh bình cùng nhịp sống của 13 dân tộc anh em. Tại đây, du khách có thể lên
những cây chè cổ thụ trên trăm tuổi, hái những búp chè xanh non cùng thiếu nữ
Hmông mến khách, hay đi dạo dưới rừng Pơ mu hoặc phiêu du cùng thác Tập Lang rì
rầm nước chảy
5. Đồi chè Suối Giàng
Suối Giàng nổi tiếng với những cây chè tuyết Shan cổ
thụ hàng trăm năm tuổi, đường kính lên tới 100cm. Chè tuyết nơi đây phát triển
tự nhiên trong tiểu vùng khí hậu quanh năm mát mẻ, chẳng cần phân bón mà vẫn
đâm chồi nảy lộc xanh biếc. Lộc non sao lên, pha nước sôi, hương vị bốc lên
thơm ngây ngất, uống vào thấy đượm vị ngọt lâu trên đầu lưỡi. Nhiều gia đình
dân tộc Mông ở đây cũng nhờ những gốc chè này mà làm nên cơ nghiệp, cải thiện
sinh hoạt trong cuộc sống. Họ coi đó là cây chè của đất trời ban tặng cho người
Mông của xứ sở này.
6. Hồ Thác Bà
Nằm ở phía Tây Bắc tổ quốc, hồ Thác Bà của tỉnh Yên
Bái, nơi được ví như “Hạ Long trên núi” là một trong ba hồ nước nhân tạo lớn nhất
Việt Nam hình thành khi xây dựng Nhà máy thuỷ điện Thác Bà.
Nằm trong địa phận hai huyện Yên Bình và Lục
Yên, Hồ Thác Bà rộng gần 23.500 ha với
hơn 1.300 đảo xanh lớn nhỏ soi bóng dưới mặt nước cùng hệ thống hang động đẹp ẩn
sâu trong lòng những dãy núi đá vôi. Chính sự kỳ bí ấy tạo cho Thác Bà một vẻ đẹp
lung linh huyền hoặc nhưng lại rất thân thiện, hữu tình. Đi thuyền trên hồ Thác
Bà, bạn không chỉ cảm nhận được bầu không khí mát lành từ nước, từ gió hồ Thác
mà còn được hoà mình cùng thiên nhiên hào phóng, thả hồn mình vào mênh mông trời
nước, điệp trùng núi đảo tưởng chừng như vô tận. Thắp một nén nhang tại đền Mẫu,
trút bỏ những tính toan bộn bề cuộc sống, cầu cho cõi lòng thanh thản nơi cửa
Phật từ bi để tiếp tục cuộc hành trình đưa bạn khám phá vẻ đẹp kỳ ảo của nhũ
đá, của những tượng đá tự nhiên kỳ lạ ẩn chứa bao khát khao hoài bão của con
người tại quần thể hang động đá vôi trên hồ như: Động Thuỷ Tiên, động Xuân
Long, hang Bạch Xà, Thác Bà, Thác Ông …
Núi Cao Biền là dãy núi lớn và dài nhất của thắng cảnh
hồ Thác Bà. Đứng trên đỉnh Cao Biền mà đón ánh ban mai hay đợi hoàng hôn buông
trên hồ Thác thì không có gì thú hơn. bạn được thoả sức phóng tầm mắt mà nhìn
ngắm, mà cảm nhận vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên, nét lung linh huyền ảo sắc nước
gương trời của một vùng đất là nơi giao thoa giữa miền Tây Bắc và Trung du Bắc
bộ, cửa ngõ của vùng Tây Bắc. Để tìm lại dấu ấn xưa của chợ Ngọc, chợ Ngà nổi
tiếng Thác Bà một thời bán, buôn sầm uất… Ngồi ca nô ngược dòng sông Chảy không
bao xa bạn sẽ được thăm thú vùng đất Ngọc Lục Yên với những danh thắng nổi tiếng
như động Chùa São, đền Đại Cại… và chiêm ngưỡng sự kỳ ảo của những tác phẩm
tranh đá quý tự nhiên dưới bàn tay tài hoa của người thợ.
Được công nhận là Di sản thắng cảnh văn hoá từ tháng 9/1996, thắng cảnh hồ Thác Bà bên cạnh
những lợi thế về vị trí địa lý như nằm trên trung lộ Hà Nội- Lào Cai, những
làng, bản ven hồ Thác hiện nay vẫn còn giữ được nét hoang sơ, nguyên thuỷ cùng
bản sắc văn hoá đặc trưng của cộng đồng các dân tộc Tày, Nùng, Mông, Dao, Phù
Lá, Cao Lan… Các lễ hội truyền thống, tập quán sinh hoạt văn hoá riêng có của từng
tộc người vẫn đang là sự lôi cuốn bạn thăm thú, tìm kiếm và khám phá Thác Bà.
7. Bản văn hóa Ngòi Tu
Bản Ngòi Tu thuộc xã Vũ Linh, Huyện Yên Bình, Tỉnh
Yên Bái. Là một bản với nhiều dân tộc anh em sinh sống, nhưng phần lớn vẫn là
dân tộc Dao (Dao Quần Trắng), bản cách Hà Nội 165km nằm ở khu vực phía Tây-Bắc
Việt Nam, theo đường QL2, QL70.
Với những đặc trưng riêng, Ngòi Tu hấp dẫn du khách
không những bởi có một vị trí đẹp, 1 phần đất liền và một nửa còn lại tiếp giáp
mặt hồ nước mênh mông mà còn bởi nơi đây là sự hội tụ các giá trị truyền thống
văn hóa đặc sắc của đồng bào các dân tộc Dao, Cao Lan, Nùng, trong đó chủ yếu
là đồng bào Dao quần trắng.
Đến với Ngòi Tu ngoài việc được thưởng thức những
món ăn dân dẫ bạn sẽ còn được hòa mình vào phong cảnh hữu tình, say lòng cùng
những làn điệu dân ca, những điệu múa : làm chay, xúc tép, rước dâu truyền thống
… Với những bạn thích lang thang khám phát còn có thể tham gia trekking núi Yến,
núi Cao Biền hoặc đạp xe khắp bản để khám phá văn hóa của người Dao.
8. Đèo Lũng Lô
Đèo Lũng Lô nằm trên quốc lộ 37 (đường 379 cũ, nối
quốc lộ 32 với quốc lộ 32B)) tại ranh giới hai huyện Văn Chấn (Yên Bái) và Phù
Yên (Sơn La), đông bắc thị trấn Phù Yên 33 km. Đèo dài 15 km từ km349 đến
km364, độ dốc 10%. Trong kháng chiến chống Pháp, một trong những con đường tiếp
vận vũ khí đạn dược và lương thực cho chiến dịch Điện Biên Phủ (13/3-7/5/1954)
qua đèo này. Trong bài thơ “Hoan Hô Chiến Sỹ Điện Biên” ra đời sau khi miền Bắc
được giải phóng, Tố Hữu đã viết: Dốc Pha đin, chị gánh, anh thồ, Đèo Lũng lô,
anh hò, chị hát. Gần đỉnh con đèo là điểm giáp ranh của cả 3 tính Phú Thọ, Yên
Bái, Sơn La.
9.Cánh đồng Mường Lò
Quốc lộ 32 uốn lượn giữa miền núi non Tây Bắc “thanh
sơn, bích thủy”. Núi cao, vực sâu, bạt ngàn cây rừng, lau lách. Rồi như một phép màu, con đường quốc lộ bỗng
lọt vào một cánh đồng bằng phẳng biêng biếc sóng lúa Mường Lò. Ngỡ ngàng trước
những mượt mà óng ả trong nắng trải tới chân núi xa, quả đúng như câu ca “Nhất
Thanh, nhì Lò, tam Than, tứ Tấc” nổi tiếng từ lâu.
Cách thành phố Yên Bái 80 km về phía tây, Mường Lò nằm
gọn trong lòng thị xã nghĩa Nghĩa Lộ và huyện Văn Chấn. Mường Lò là cánh đồng lớn
thứ hai ở miền núi phía Bắc, chỉ sau Mường Thanh – Điện Biên (còn hai cánh đồng
nhỏ hơn là Mường Than – Than Uyên và Mường Tấc – Phù Yên). Người Thái đen đã định
cư lâu đời ở nơi đây. Theo câu chuyện sử thi của người Thái kể rằng: Hai anh em
Tạo Xuông và Tạo Ngần tìm nơi lập nghiệp. Tạo Xuông đã dừng chân dựng bản làng ở
Mường Lò, xây dựng nên vùng đất tổ tiên của người Thái đen ở khắp vùng Tây Bắc
vì thấy ở đây đất đai màu mỡ, nguồn nước dồi dào.
Câu tục ngữ: “Thái theo nước, Xá theo lửa” nói về tập
quán canh tác của người Thái trồng lúa nước, người Xá (Khơ Mú) đốt nương làm rẫy.
Còn ông Tạo Ngần lên Mường Then (Mường Thanh ngày nay) xây dựng bản làng người
Thái trắng cũng trồng lúa nước là chủ yếu. Nếp Tú Lệ, tẻ Mường Lò đã thành danh
từ lâu. Hương thơm của hạt gạo nơi này đã bay xa, vượt núi non đến nhiều nơi được
rất đông người biết đến.
Xuôi theo quốc lộ 32 với những miên man suy nghĩ về
Mường Lò, Yên Bái. Để rồi ngỡ ngàng khi chứng kiến vẻ đẹp của những cánh đồng
lúa chín vàng, thoai thoải bậc thang tiến về phía núi. Con suối Nậm Thia vắt
ngang qua thung lũng như vẽ một dải lụa mềm uốn lượn giữa sóng lúa vàng. Tôi giật
mình trước vẻ đẹp Mường Lò với một bóng người con gái Thái gánh lúa trên vai
đang rẽ ngang con suối để rồi sẽ chẳng bao giờ lòng có thể quên.
“Ngày xưa, nơi ấy có một đôi trai tài gái sắc yêu
nhau tha thiết. Cô gái đẹp như trăng rằm, mái tóc đen dài mềm mại. Mỗi khi nàng
ngồi bên khung cửi, chim muông, hoa lá như múa vờn trong mỗi đường thêu. Chàng
trai khỏe mạnh, giỏi làm nương, săn bắt thú. Mỗi khi tiếng khèn của chàng cất
lên, chim rừng ngừng tiếng hót hồi hộp lắng nghe. Nhưng tên chúa đất quyết bắt
cô gái về làm người hầu. Hai người rủ nhau chạy lên núi cao để bảo vệ tình yêu
đôi lứa. Tên chúa đất cho người đuổi theo. Chàng trai và cô gái kiệt sức gục xuống
trên đỉnh núi. Cô gái không cầm lòng được, chỉ biết khóc than cho mối tình tuyệt
vọng. Nước mắt của cô chảy mãi hóa thành dòng suối Nậm Thia, mái tóc dài thơm
hóa thành làn rêu xanh mướt như vẫy gọi. Chàng trai đau đớn nhảy xuống dòng suối,
thân thể chàng vừa chạm mặt nước bỗng vỡ tan, hóa thành muôn tảng đá cho làn
rêu quấn quýt bám quanh”. Tôi đã bao lần được nhâm nhi chén rượu thơm cất từ những
hạt gạo Mường Lò, thấm đẫm huyền thoại kia với món rêu đá thơm, cay, dịu mát.
Những sóng vàng của con suối Thia ấy như muôn bàn tay vẫy gọi.
Chỉ có người Thái đen ở Mường Lò mới có tục hát mời
rượu và cũng chỉ có ở đây thì du khách mới có thể được nâng chén cùng lời ca mời
rượu, cùng điệu Xòe Thái dập dìu bên bếp lửa nhà sàn. Tiếng hát người con gái
Thái bên mâm rượu đã từng làm say bao du khách khi đến bản Mường. Tiếng hát như
hơi rượu ngấm vào lòng người không thể nào quên.
10.Di tích Căng Đồn Nghĩa Lộ
Khi nhắc tới lịch sử của Căng và Đồn Nghĩa Lộ là nhắc
tới địa danh Văn Chấn và nhắc tới lịch sử nơi này thời kỳ kháng chiến chống
Pháp những năm 40 của thế kỷ XX. Với ý đồ dập tắt phong trào cách mạng, Thực
dân Pháp lập các trại “lao động đặc biệt” tập trung những người yêu nước. Sau
khi Căng Bá Vân (Thái Nguyên) bị giải thể, Thực dân Pháp đã đưa những người yêu
nước bị giam về Nghĩa Lộ. Mùa hè năm 1944 chi phủ Văn Chấn đã huy động các tổng,
xã bắt phu nộp vật liệu để xây dựng Căng. Thực dân Pháp còn cử tên Đinh Văn
Dung và tên Lăm – Be sở mật thám huyện đến kiểm tra đôn đốc khẩn trương ngày
đêm. Tháng 1/1945 thì việc xây dựng hoàn thành. Nhìn toàn cảnh lúc này Căng
Nghĩa Lộ như một cái tủ dựng đứng có 3 dãy nhà dài “hai dãy là nơi giam giữ
chính phạm nam giới, phía trong giam chính trị phạm nữ giới, phía ngoài là nơi
thường trực và bên cạnh là trạm gác của lính khố xanh”. Bao bọc toàn bộ khu
Căng Đồn là hàng rào dây thép gai, phía ngoài hàng rào là hầm sâu có cắm chông,
bồn góc Căng có chòi cao sừng sững ngày đêm canh giữ cẩn mật…
11. Bản Hốc
Cách Hà Nội gần 200km, Bản Hốc nằm ngay trung tâm của huyện Văn Chấn,
tỉnh Yên Bái. Với gần 80% là dân tộc Thái, sống chủ yếu bằng làm nông nghiệp.
Nơi đây còn lưu giữ khá nguyên vẹn những nét văn hoá đặc trưng của dân tộc
Thái.
Đến với Bản Hốc ngoài được khám phá những nét thú vị,
đặc sắc của văn hoá dân tộc Thái với những ngôi nhà sàn truyền thống, tìm hiểu những
nghề thủ công hay thưởng thức những ly rượu men lá, rượu cần cùng với điệu xoè
say đắm đã đi vào câu thơ, lời hát. bạn còn được ngâm mình trong suối khoáng
nóng tự nhiên quanh năm có tác dụng rất tốt cho sức khoẻ hoặc thử sức với những
dãy núi đá vôi khám phá hang Dơi, tham gia đốt lửa trại….
12. Chợ đá quý Lục Yên
Chợ đá Lục Yên họp tại một địa điểm khá đẹp nằm ở
góc hồ nước lung linh ở Thị trấn Yên Thế, Lục Yên, Yen Bái. Chợ chỉ họp trong
khoảng thời gian vài ba tiếng đồng hồ vào buổi sáng hàng ngày. Tùy mùa theo thời
tiết mà phiên chợ diễn ra sớm hay muộn, nhưng áng chừng từ sáu rưỡi sáng người
bán hàng bắt đầu đến chợ.
Hàng được bày lên mặt bàn thành từng mớ. Hàng là các
loại đá quý, đá bán quý các loại. Có thứ đã qua chế tác, có thứ còn để thô
nguyên gốc. Nhưng dù ở dạng nào, những thứ hàng được bán ở cái chợ này đều khoe
sắc lung linh. Những người bán hàng cho biết, đá quý được thu gom của những người
đi núi về, có thời gian thì chế tác thành mặt đá cho nhẫn, dây chuyền, hoa tai…
Có những thứ để làm nguyên liệu cho làm tranh đá quý, được bán bằng cân, bằng lạng.
13. Khu bảo tồn thiên nhiên Nà Hẩu
Khu bảo tồn thiên nhiên Nà Hẩu thuộc địa bàn 4 xã:
Nà Hẩu, Đại Sơn, Mỏ Vàng, Phong Dụ Thượng của huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái, có tọa
độ địa lý từ 21051’35’’ đến 21057’00’’ vĩ độ Bắc và từ 104030’50’’ đến
104036’55’’ kinh độ Đông với tổng diện tích quy hoạch 16.950 ha, trong đó, khu
bảo vệ nghiêm ngặt 7.250 ha, phân khu phục hồi sinh thái: 9.700 ha.
Khu vực Nà Hẩu như một lòng chảo được tạo nên từ
thung lũng hẹp, xung quanh được bao bọc bởi những dãy núi cao. Địa hình ở đây bị
chia cắt mạnh tạo thành nhiều khe suối và các hợp thủy. Độ cao trung bình từ
600 – 700m so với mặt biển. Nơi cao nhất 1.788m, nơi thấp nhất 200m. Nhiệt độ
bình quân 23,20C, lượng mưa bình quân 1.458,0 mm/năm, độ ẩm 85%. Hàng năm thường
xuất hiện gió mùa Đông – Bắc vào tháng 11 và 12 kèm theo sương muối. Những ngày
ít nắng, trời âm u, ở những nơi núi cao sương mù bao phủ cả ngày, độ ẩm không
khí trong rừng rất lớn. Với điều kiện khí hậu như vậy rất phù hợp cho sự sinh
trưởng phát triển và khả năng tái sinh tự nhiên của cây rừng, thuận lợi cho các
loài thực, động vật ở đây phát triển đa dạng và phong phú, tạo nên cấu trúc rừng
rậm, nhiều tầng tán phù hợp với tính năng phòng hộ đầu nguồn.
Trong khu bảo tồn thiên nhiên này, hệ rừng lá rộng
thường xanh còn tương đối nguyên vẹn,
nhiều khe, suối, thác nước chảy quanh năm. Cấu trúc rừng chưa bị phá vỡ,
tầng tán được phân chia rõ rệt: tầng cao nhất là cây gỗ lớn nhô lên không liên
tục chủ yếu là các loài như Chò nâu, Giổi, Trám…; tầng giữa là tầng ưu thế sinh
thái, tán cây rừng liên tục cao gần ngang nhau, thuộc các loài cây thường xanh
như Gội, De, Giẻ…; tầng dưới phân thành nhiều lớp cao thấp khác nhau, chủ yếu
là các cây gỗ nhỏ ưa bóng; tầng thảm tươi chủ yếu là cây bụi, Dương sỉ, Cau rừng…;
Hiện rừng tự nhiên vẫn còn trên 30 loài thực vật khác nhau, trong đó có những
loài cây gỗ quý hiếm như Lát Hoa, Pơ mu… phát triển chủ yếu ở độ cao 700m trở
lên. Hệ động vật trong khu bảo tồn khá phong phú và nhiều loài quý hiếm vẫn được
gìn giữ và bảo tồn. Chủ yếu còn các loài thú như Chồn, Cầy hương, Lợn rừng, Rắn…
và một số loài chim. Bên cạnh đó, người dân nơi đây chủ yếu là đồng bào dân tộc
H’Mông và Dao với những nét đẹp văn hóa dân tộc đặc sắc như trang phục và nhà ở…
vẫn được gìn giữ khá nguyên bản. Nà Hẩu khá thích hợp cho những nhóm bạn yêu
thích trekking, cắm trại hay khám phá thiên nhiên.
14. Hồ Chóp Dù
Ở xã Cường Thịnh, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái có một
hồ nước rất đẹp, thơ mộng và yên tĩnh. Một địa điểm thú vị để mọi người có thể
khám phá thiên nhiên hay nghỉ ngơi, vui chơi, câu cá và tận hưởng bầu không khí
trong lành, cảnh nguyên sơ nhưng đầy chất lãng mạn mà thiên nhiên ban tặng – đó
là Hồ Chóp Dù.
Nằm ngang lưng núi, hồ Chóp Dù rộng 16 ha, bao quanh
hồ là cảnh quan sinh thái đa dạng với nhiều ngách xen lẫn với các khu rừng tự
nhiên. Nước hồ ở đây trong xanh, phẳng lặng, soi bóng những vạt rừng.
15.Chiến khu Vần
Chiến khu Vần là một vùng đất khá rộng, nằm ở phía
Nam huyện Trấn Yên và Đông Nam huyện Văn Chấn. Trước năm 1945, Chiến khu Vần nằm
ở địa bàn của 3 tổng là: Lương Ca, Giới Phiên (thuộc Trấn Yên) và Đại Lịch thuộc
Văn Chấn có cự ly dài từ Bắc xuống Nam là 23km và từ Đông sang Tây 18km .
Căn cứ cách mạng kiểu chiến khu có quy mô khá rộng
trong đó có 2 vùng quan trọng nhất là làng Vần và làng Đồng Yếng.
Làng Vần là thung lũng được bao bọc bởi các dãy núi
có độ cao trung bình từ 200 đến 500m, thung lũng có chiều dài 4,5 km, đường đi
lại khó khăn, ngày nay được kết cấu bằng những chân ruộng bậc thang, sau cách mạng
được đồng bào khai phá (có độ chênh lệch thấp) nay gọi là Đồng Trò, Đồng Cây Gạo,…
có ngòi Vần chạy dọc theo làng. Đây cũng là hợp lưu của 3 con ngòi nhỏ để tạo
nên ngòi Vần. Địa thế hiểm trở, xưa chỉ có một con đường duy nhất vào làng và
phải qua đèo. Vừa kín đáo lại vừa gần các trung tâm chính trị (tỉnh lỵ hai tỉnh
Yên Bái – Phú Thọ) nên khu vực này đã được xứ uỷ Bắc Kỳ chọn làm nơi thuận lợi
cho việc lập căn cứ cách mạng dần phát triển hình thành mô hình kiểu chiến khu.
Làng Đồng Yếng cách làng Vần khoảng 4 km về phía
Đông và cách Hiền Lương hơn 3 km về phía Tây. Là làng nằm giữa Vần và Hiền
Lương. Có vị trí thuận lợi, đồi hình mâm xôi nên Đồng Yếng được đội du kích Âu
Cơ chọn làm trung tâm huấn luyện quân sự để phát triển lực lượng vũ trang để
chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền cách mạng ở Yên Bái và Phú Thọ.
16. Di tích đền Đại Cại
Quần thể di tích đền Ðại Cại thuộc xã Tân Lĩnh, huyện
Lục Yên, cách thành phố Yên Bái khoảng 80km, bao gồm đình Bến Lăn, chùa tháp đất
nung Hắc Y, đền Ðại Cại và thành nhà Bầu bao bọc quanh bãi đua ngựa huấn luyện
kỵ binh.
Quần thể này nằm dưới chân núi Vua áo đen, bên hữu
là sông Chảy, trước mặt là suối Ðại Cại. Những thần được thờ ở đây đều là những
người có công khai sơn lập thạch, mở mang chợ búa, lập ra làng bản, phố xá. Ðền
Ðại Cại có từ thời hậu Lê, do nhân dân tổng Lâm Trượng hạ xây dựng để thờ bà Vũ
Ngọc Anh, con gái một vị quần thần nhà Lê bị nhà Mạc giết hại. Bà là một danh
nhân, chịu trách nhiệm việc đáp luỹ xây thành, lập ra các chợ. Ngoài ra, đền có
thờ hai anh em Vũ Văn Mật và Vũ Văn Uyển có công lớn trong việc chống quân nhà
Mạc. Ðền Ðại Cại, đình Bến Lăn có kiến trúc đẹp, có đủ các đồ thờ tự như bát
nhang đồng, ngai thờ sơn son thếp vàng, đề có trạm trổ tứ quý làm từ gỗ tứ quý
như chò chỉ, vàng tâm, lõi thọ, đinh hương. Ðặc biệt, những tảng đá kê cột
đình, cột đền được chạm trổ hình mặt trăng, hoa sen, lá đề, mỗi tảng nặng hơn
100 kg. Ðền có chiên đồng, chuông đồng, có sắc phong của vua Cảnh Phong và vua
Tự Ðức. Ngôi đền có kiến trúc đồ sộ, các chân tảng kê cột loại lớn có đường
kính tới 45 cm, loại nhỏ 32 cm để đỡ các cột nách, cột lòng. Các chân tảng đều
chạm 16 cánh hoa sen đều đặn vây quanh. Tại đây còn tìm thấy bệ Phật hoa sen bằng
đất nung, bát sứ, lọ sứ men ngà rạn trang trí hình cánh sen rất đặc trưng của
nghệ thuật thời Trần. Ngay dưới chân núi, tại dải thung lũng trải dài song song
với sông Chảy vẫn còn lưu lại dấu vết của ngôi đền và những bức tường đất của một
toà thành bao quanh. Bãi đua ngựa luyện tập kỵ binh nằm trong thành ngay trước
của đình Bến Lăn.
17. Tây Yên Bái
Không biết vô tình thế nào mà những địa danh hiểm trở
bậc nhất lại đều nằm hết về phía Tây của Yên Bái, những địa điểm như Tà Sì
Láng, Háng Tề Chơ (Làng Nhì), Phình Hồ, Chế Tạo, Mù Cao … có lẽ chỉ hợp những
những phượt thủ thích offroad. Với những bạn kinh nghiệm đi phượt chưa nhiều,
tay lái chưa được vững thì có lẽ tạm thời nên bỏ qua những địa điểm này.
18.Tà Sì Láng
Tà Sì Láng là một xã thuộc huyện Trạm Tấu, Yên Bái.
Phía bắc giáp Bản Mù, phía Tây giáp Phù Yên (Sơn La), phía Đông và Nam giáp huyện
Văn Chấn. Dân cư ở đây 100% là người H’Mong, sinh sống chủ yếu bằng nghề làm
nương. Với đặc điểm địa hình hiểm trở trên độ cao gần 2000m, đường vào Tà Sì
Láng cực kỳ khó khăn. Trước đây chỉ có đường dân sinh nhưng nay cũng đã mở rộng
khoảng 4-5m, thường xuyên sạt lở và ách tắc vào mùa mưa bão. Độ dốc của con đường
cũng thuộc dạng khủng, từ 15-20%. (So với 6-8% độ dốc trung bình của các con đường
khác ở Tây Bắc)
19. Háng Tề Chơ – Làng Nhì
Háng Tề Chơ (Háng Đề Chơ) là bản xa nhất của xã Làng
Nhì, Trạm Tấu, Yên Bái. Đây là một bản tập trung khoảng vài chục hộ dân người
Mông Đen, bản cũng sở hữu ngọn thác cùng tên Háng Tề Chơ, được coi là một ngọn
thác đẹp trong danh sách các điểm đến của Tây Bắc.
20. Chế Tạo
Là một xã vùng cao của Mù Cang Chải giáp với Mường
La của Sơn La, Chế Tạo là một trong những điểm đến đặc biệt khó trong giới du lịch
bụi. Cách trung tâm huyện khoảng 35km nhưng thời chưa làm đường, phải mất đến nửa
ngày mới có thể vào được đến trung tâm xã. Chế Tạo phù hợp với những nhóm bạn
ưa offroad mạo hiểm, từ đây có đường nối sang xã Hua Trai rồi vòng về Mường La,
ngược theo Quốc lộ 6 từ Sơn La về Hà Nội
21. Bản Mù
Là một xã vùng cao của huyện Trạm Tấu, cách trung
tâm huyện khoảng 12km. Nằm trên độ cao khoảng hơn 1000m so với mặt nước biển, Bản
Mù quanh năm sương giăng kín lối với những ngôi nhà của đồng bào nằm lạc lõng
trên những sườn núi.
Tìm trên Google : các địa điểm du lịch ở yên bái, đi
đâu ở yên bái, chơi gì ở yên bái, danh lam thắng cảnh ở yên bái, địa danh du lịch
yên bái, các điểm đến yên bái, thắng cảnh đẹp ở yên bái, các di tích ở yên bái,
cac dia diem du lich yen bai, di dau o yen bai, choi gi o yen bai, danh lam
thang canh o yen bai, dia danh du lich yen bai, cac diem den yen bai, thang
canh dep o yen bai, cac di tich o yen bai
0 nhận xét:
Đăng nhận xét